MỤC LỤC
1. Bản án dân sự phúc thẩm số 166/2023/DS-PT ngày 28/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp phân chia thừa kế theo pháp luật, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.
Nội dung hủy án:
(i) Phía nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00293 ngày 01/9/2008 do bà Nguyễn Thị T2 đứng tên diện tích 882,7m², thửa số 913, tờ bản đồ số 1. Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 209/08 ngày 20/10/2008 do Ủy ban nhân dân xã Long B chứng thực là vô hiệu. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00304 ngày 25/11/2008 do bà Trần Thị Kim X đứng tên diện tích 882,7m², thửa số 913, tờ bản đồ số 1, địa chỉ thửa đất tại ấp Long T, xã Long B, huyện G. Hội đồng xét xử xét thấy: Nguồn gốc phần đất tranh chấp thửa 913, tờ bản đồ số 01 do ông Trần Văn M và bà Nguyễn Thị T2 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H08115 do Ủy ban nhân dân huyện G cấp ngày 11/10/2005. Sau khi cụ M chết (năm 2007) thì cụ T2 làm “Văn bản nhận thừa kế” ngày 15/6/2008 được Ủy ban nhân dân xã Long B chứng thực nhưng chỉ có cụ T2 điểm chỉ (bút lục 194 – 195). Những người đồng thừa kế khác gồm Trần Văn A, Trần Văn L, Trần Văn D, Trần Ngọc Tr, Trần Thanh Th, Trần Thị Kim X không ký tên vào “Văn bản nhận thừa kế”. Bà T2 được Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00293 ngày 01/9/2008 đối với thửa số 913, tờ bản đồ số 01, diện tích là 882,7m2 (đất trồng cây lâu năm + đất ở). Ngày 20/10/2008, bà T2 tặng cho quyền sử dụng đất thửa số 913, tờ bản số 01 cho bà Trần Thị Kim X (bút lục số 182). Tại biên bản ghi lời khai ngày 03/10/2019, cụ T2 khẳng định từ trước đến nay không tặng cho quyền sử dụng đất cho bà Trần Thị Kim X (bút lục 118 – 119). Theo biên bản xác minh ngày 10/3/2023 ông Lê Hữu Lợi cho biết “tại địa phương thì biết bà Nguyễn Thị T2 không đọc, viết được. Trong quá trình giải quyết tranh chấp thì bà T2 không biết đọc, viết chỉ lăn tay, trong quá trình thông qua biên bản thì bà T2 cũng không thể đọc được mà phải thông qua cán bộ hòa giải đọc biên bản” (bút lục số 392). Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ trình độ văn hóa của cụ T2 để xác định cụ T2 có thể đọc, viết được hay không, khi ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thì cụ T2 có biết rõ nội dung hợp đồng hay không, ý chí cụ T2 tại thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng có đồng ý tặng cho quyền sử dụng đất cho bà X hay không. Cấp sơ thẩm cũng chưa xác minh làm rõ việc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã Long B có đúng trình tự, thủ tục theo quy định Điều 9 Luật Công chứng 2006 và Điều 8 Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về Công chứng, chức thực hay không.
(ii) Tại phiên tòa phúc thẩm các nguyên đơn và bị đơn có yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ T2 trong khối tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ T2 với bà X, nếu xác định được ý chí cụ T2 không đồng ý tặng cho quyền sử dụng đất cho bà X, việc chứng thực hợp đồng có vi phạm quy định pháp luật về chứng thực tại thời điểm ký hợp đồng thì phải xác định phần tài sản của cụ T2 trong khối tài sản chung là di sản thừa kế của cụ T2 để lại để giải quyết yêu cầu chia thừa kế của các đương sự nhưng vấn đề này chưa được cấp sơ thẩm làm rõ. Nếu cấp phúc thẩm giải quyết vấn đề này sẽ vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu của các đương sự, ảnh hưởng đến quyền kháng cáo của các đương sự.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số 132/2023/DS-PT ngày 24/3/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp di sản thừa kế và yêu cầu hủy quyết định cá biệt.
Nội dung hủy án:
Tại giai đoạn phúc thẩm đã phát sinh các chứng cứ mới là: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T và bà Nguyễn Thị T1 - đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xuất trình văn bản “Giấy thừa kế quyền sử dụng đất” – bản gốc; ông Nguyễn Sỹ D - bị đơn xuất trình văn bản “Giấy thừa kế quyền sử dụng đất” - bản gốc. Nội dung của các văn bản này thể hiện cụ Nguyễn Sỹ K và cụ Nguyễn Thị H đã định đoạt cho bà T và ông D mỗi người một phần đất là 120m2, có kích thước (6m x 20m), có người làm chứng là ông Nguyễn Trọng T5 và ông Nguyễn Khắc C1 ký xác nhận. Bà T và ông D cho biết ông Nguyễn Trọng T5 là Bí thư chi ủy Khu, ông Nguyễn Khắc C1 là bác ruột về đằng mẹ (cụ H). Bà T còn xuất trình “Biên bản họp gia đình bà H” lập ngày 13/11/2010 - bản gốc, thể hiện cụ H và các con đã thống nhất phân chia quyền sử dụng đất sau khi cụ K chết, vị trí thửa đất của bà T và ông D tại “Biên bản họp gia đình bà H” lập ngày 13/11/2010 có khác so với “Giấy thừa kế quyền sử dụng đất” mà cụ K và cụ H đã lập trước đây. Đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Sỹ D1 cho rằng “Giấy thừa kế quyền sử dụng đất” - bản gốc mà hai cụ viết cho ông D1 đã bị thất lạc, chưa tìm thấy nên chưa xuất trình được cho Tòa án; đồng thời cũng thừa nhận có cuộc họp gia đình cụ H vào ngày 13/11/2010 nhưng cho rằng ông D1 không tham gia mà có vợ là bà Lê Thị N1 tham gia.
Như vậy, có căn cứ để xác định khi còn sống cụ K và cụ H đã có văn bản thể hiện ý chí của mình trong việc định đoạt tài sản là quyền sử dụng đất cho các con nhưng các đương sự chưa xuất trình được bản gốc, dẫn đến Tòa án cấp sơ thẩm đã chia thừa kế theo pháp luật theo quy định tại các Điều 649, 650, 651 Bộ luật Dân sự là không phản ảnh đúng ý chí của người để lại di sản. Hội đồng xét xử xét thấy đây là những cứ mới, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định di sản thừa kế đã được cụ Nguyễn Sỹ K và cụ Nguyễn Thị H định đoạt hay chưa? Phần tài sản nào đã được định đoạt? Phần nào chưa được định đoạt? Để đánh giá tính đúng đắn của những chứng cứ mới, làm căn cứ xác định di sản thừa kế và việc chia thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật, hay vừa chia thừa kế theo di chúc, vừa chia thừa kế theo pháp luật? nên Hội đồng xét xử đồng quan điểm với đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tại phiên tòa về việc cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm để giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Hội đồng xét xử phúc thẩm cùng đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội cũng đã xem xét, đối chiếu các tài liệu là bản gốc mà bà T và ông D xuất trình, đã photocoppy lưu trong hồ sơ vụ án và trả lại bản gốc cho ông D, bà T để xuất trình khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
3. Bản án dân sự phúc thẩm số 277/2022/DS-PT ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp đòi di sản thừa kế, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất, chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Nội dung hủy án:
(i) Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, ông B1 có yêu cầu phản tố chia di sản thừa kế đối với phần diện tích đất đất thổ - cây lâu năm 1.096,4m2. Xét yêu cầu này của ông B1 là có căn cứ vì như mục [3.2] và [3.3] nêu trên đã nhận định diện tích đất này là di sản thừa kế của cụ G, cụ D để lại và các đồng thừa kế thống nhất chưa chia mà dùng vào việc thờ cúng nhưng nay ông B1 không đồng ý để thờ cúng mà yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật, hơn nữa trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm thì những đồng thừa kế khác gồm bà Phạm Thị S, Phạm Thị Nh cũng có yêu cầu nếu nguyên đơn tranh chấp thì các bà cũng yêu cầu chia di sản thừa kế. Toà án cấp sơ thẩm cho rằng các đồng thừa kế đã có thoả thuận trong văn bản ngày 02/7/2009 để diện tích đất nêu trên dùng vào việc thờ cúng nên từ đó không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông B1 là không đúng pháp luật, bởi lẽ văn bản thoả thuận này không làm mất quyền yêu cầu chia thừa kế của các đồng thừa kế.
(ii) Xét Toà án cấp sơ thẩm không tiến hành thẩm định giá tài sản theo giá thị trường đối với diện tích đất 1.096,4m2 cùng các tài sản trên đất và không tiến hành đo vẽ hiện trạng đất để chia di sản theo hiện vật nên Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay tại phiên toà được, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của ông B1, huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.
4. Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2023/DS-PT ngày 30/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận về tranh chấp chia tài sản thừa kế theo pháp luật.
Nội dung hủy án:
(i) Biên bản ghi lời khai của Tòa án cấp sơ thẩm đối với bà Nguyễn Thị H (Một trong những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Thái N) cũng như tại phiên tòa sơ thẩm (Các bút lục số 70, 142), bà H yêu cầu Tòa án giải quyết chia di sản thừa kế của vợ chồng ông Nguyễn Thái A, bà Võ Thị L5 là thửa đất số 91 diện tích 241m2 (Thửa đất số 91) bao gồm cả phần diện tích đất 54m2 bà L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đơn khởi kiện ngày 09/11/2020 (Bút lục số 22), ông Nguyễn Thái N (Chồng bà Nguyễn Thị H) khởi kiện bà Nguyễn Thị Hồng L, yêu cầu chia di sản thừa kế đối với thửa đất số 91 và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bà Nguyễn Thị Hồng L đã được UBND huyện N cấp. Tòa án cấp sơ thẩm không thụ lý, không thu thập chứng cứ để giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Không đưa Ủy ban nhân dân huyện N vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu) nên đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, lập luận bà L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên diện tích 54m2 đất không còn là di sản. Việc đánh giá chứng cứ, lập luận nêu trên là không có cơ sở pháp lý vì thời điểm tặng cho đất, ông Nguyễn Thái A (Chồng bà L5 đã chết); Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ hợp đồng tặng cho có thật hay không; Nội dung và hình thức của hợp đồng có hợp pháp hay không để xem xét công nhận hay không công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, trong khi đó bà L có yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất đã được bà L5 tặng, cho. Với phạm vi khởi kiện của nguyên đơn thì phải xem xét về thẩm quyền giải quyết vụ án đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 34 của Bộ luật tố tụng dân sự cũng như Điều 32 Luật tố tụng hành chính.
(ii) Ranh giới của thửa đất số 91 có sự biến động (Thửa đất số 91 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm nhận định phần diện tích biến động hướng Bắc do lấn đường; Hướng nam lấn chiếm 25m2 thuộc thửa đất số 93 của chủ sử dụng khác đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng; Hướng Tây lấn chiếm đất lề đường sẽ được tách ra giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi các đương sự có yêu cầu giải quyết. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định thiếu cơ sở pháp lý vì Tòa án phải xác định diện tích đất hợp pháp của thửa đất số 91 là bao nhiêu mét vuông mới giải quyết được yêu cầu khởi kiện để chia di sản chính xác, đầy đủ. Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành thẩm định đất nên đánh giá chứng cứ về ranh giới, mốc giới, diện tích của thửa đất số 91 là phiến diện, không có căn cứ dẫn đến đưa tài sản là căn nhà diện tích 4m x 8m; Bếp tạm; Nhà vệ sinh; Sân xi măng đều là tài sản riêng của ông Nguyễn Thái H5 để chia di sản thừa kế đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Thái H5.
(iii) Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ thời điểm vợ chồng ông Nguyễn Thái N, bà Nguyễn Thị H cũng như cá nhân ông Nguyễn Thái H5 sử dụng thửa đất số 91, xây dựng nhà trên thửa đất số 91 để xem xét công sức (nếu có) cho các đương sự theo Án lệ số 05/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
(iv) Nguyên đơn còn yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng thửa đất số 200, tờ bản đồ số 11 diện tích 1.500m2 (Bút lục số 72). Các đương sự thừa nhận đây cũng là tài sản của vợ chồng ông Nguyễn Thái A, bà Võ Thị L5 chưa định đoạt trước khi chết. Thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhưng vợ chồng ông A, bà L5 canh tác khi còn sống và hiện nay các ông Nguyễn Thái H5, Nguyễn Thái L3, Nguyễn Thái L2 đang canh tác. Tòa án cấp sơ thẩm xác minh tại UBND xã P được cán bộ địa chính cung cấp thông tin thửa đất số 200 được quy chủ cho UBND xã P nhưng không có tài liệu chứng cứ để chứng minh trong khi vợ chồng ông A, bà L5 canh tác khi còn sống và hiện nay những người thừa kế của họ đang tiếp tục canh tác. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ quyền sử dụng đất này được quy chủ cho UBND xã P căn cứ vào tài liệu, chứng cứ nào; Chưa làm rõ vì sao quy chủ cho UBND xã nhưng bà L5 cũng như các con là H5, L3, L2 đang canh tác trên đất. Biên bản xác minh (bút lục số 89) không có chữ ký xác nhận cũng như đóng dấu của người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân xã P nên chưa đảm bảo về hình thức cũng như nội dung do cán bộ địa chính xã cung cấp thông tin về việc quy chủ nên Tòa án cấp sơ thẩm nhận định thửa đất số 200 không phải là di sản là chưa có cơ sở vững chắc.
(v) Từ những phân tích, đánh giá chứng cứ dựa trên kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm có nhiều vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cũng như thu thập, đánh giá chứng cứ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mà Tòa án cấp phúc thẩm không khắc phục được nên kháng cáo của bà Nguyễn Thị H là có căn cứ. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận đánh giá, lập luận đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo cũng như quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa; Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung dựa trên các nhận định, viện dẫn tại các mục [2.1], [2.2], [2.3], [2.4] của bản án phúc thẩm.
5. Bản án dân sự phúc thẩm số 243/2023/DS-PT ngày 24/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về chia di sản thừa kế theo pháp luật và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nội dung hủy án:
(i) Về tố tụng: Tại Công văn số 46 ngày 23/9/2020 (Bút lục 422), Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – chi nhánh Tây Tiền Giang xác định ông Nguyễn Văn LE có vay tiền của Ngân hàng và đang thế chấp thửa 430 do ông LE đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ngân hàng; Ngân hàng không có khởi kiện ông LE.
Xét thấy: Thửa 430 có diện tích 906,4m2, tọa lạc tại ấp AT, xã ĐHH, huyện CB được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn LE được tách ra từ thửa đất tranh chấp thửa 92 do ông Nguyễn Văn Th đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – chi nhánh Tây Tiền Giang tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là có thiếu sót, chưa đảm bảo quyền lợi cho Ngân hàng mặc dù Ngân hàng có văn bản không yêu cầu Tòa án giải quyết.
(ii) Về thẩm quyền giải quyết vụ án:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Ng có yêu cầu khởi kiện: yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn Th và ông Nguyễn Văn LE.
Xét thấy, Ông Nguyễn Văn Th được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở Giấy giao quyền, tặng cho quyền sử dụng đất toàn bộ 06 thửa do cụ Nguyễn Văn Đang đứng tên quyền sử dụng đất ngày 18/12/2013 cho cụ Ch được toàn quyền định đoạt và Văn bản phân chia tài sản thừa kế được chứng thực vào ngày 30/4/2014. Tuy nhiên, theo Kết luận giám định số 109/C09- P5 ngày 29/5/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Chữ ký “Đan” trên mẫu ký hiệu A1- Giấy giao quyền, tặng cho quyền sử dụng đất ngày 18/12/2013 so với chữ ký đứng tên Nguyễn Văn Đang (Đan) trên các mẫu so sánh ký không phải do cùng một người ký ra và chữ ký “X” cần giám định trên mẫu ký hiệu A2 – Văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 30/4/2014 so với chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị X trên các mẫu so sánh ký hiệu không phải do cùng một người ký ra (Bút lục 349). Ngoài hai tài liệu, chứng cứ nêu trên thì ông Nguyễn Văn Th và cụ Đoàn Thị Ch không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh khi còn sống cụ Nguyễn Văn Đang đã định đoạt giao toàn bộ 06 thửa đất do cụ Đang đại diện hộ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ Ch được toàn quyền định đoạt. Ông Th và cụ Ch cũng thừa nhận hàng thừa kế của cụ Đang gồm 07 người là cụ Ch, ông Th, bà Ng, bà N, bà X, bà Cầm L, bà L1. Nhưng tại Văn bản phân chia tài sản thừa kế được chứng thực vào ngày 30/4/2014 (Bút lục 243, 242) lại xác định hàng thừa kế của cụ Đang chỉ gồm cụ Ch, bà L1, ông Th và bà X; cho nên Văn bản này không có giá trị pháp lý. Ngoài ra, cụ Ch chỉ có quyền định đoạt 1/7 trong khối di sản của cụ Đang. Cho nên cần xem xét, đánh giá tính pháp lý của việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với toàn bộ 06 thửa đất của cụ Đang đại diện hộ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Th.
Ông Nguyễn Văn LE được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Th. Tại thời điểm thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông LE ngày 24/01/2018 (Bút lục 157 đến 159), ông Th biết rõ thửa số 92 đang tranh chấp với bà Nguyễn Thị Kim Ng và các đồng thừa kế khác (bà Ng nộp đơn khởi kiện ngày 14/12/2016 và Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý vụ án số: 132/2017/TLST-DS ngày 14/4/2017).
Theo hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày 05/5/2017 bà Ng có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc ông Th và các thành viên trong hộ phải ngưng việc chuyển nhượng 01 phần thửa đất tranh chấp số 92 cho người nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn LE (Bút lục 40). Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tiến hành xác minh tại UBND xã ĐHH ngày 29/5/2017 (Bút lục 41) thể hiện: UBND xã không nắm rõ việc ông Th chuyển nhượng 01 phần thửa đất 92 cho ông LE do ông Th và ông LE không đến UBND xã tiến hành làm thủ tục; không tiến hành xác minh đối với ông LE xem ông LE có thỏa thuận nhận chuyển nhượng đất với ông Th như trong đơn bà Ng nêu hay không, nhưng trên cơ sở xác minh tại UBND xã ĐHH, Tòa án cấp sơ thẩm ban hành Thông báo về việc trả lại đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của bà Ng. Đến ngày 06/11/2018, bà Ng tiếp tục gửi đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc ông Th và các thành viên trong hộ phải ngưng việc chuyển nhượng 01 phần thửa đất tranh chấp số 92 (Bút lục 171) với lý do ông LE đang chờ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 430 (được tách ra 01 phần thửa đất tranh chấp số 92). Tòa án cấp sơ thẩm lại ban hành Thông báo về việc trả lại đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của bà Ng với lý do ông LE đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 430 nên không thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được (Bút lục 172). Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được ký kết giữa ông Nguyễn Văn Th, bà Võ Thị Kim Q với ông Nguyễn Văn LE được công chứng tại Văn phòng công chứng Mỹ Thuận ngày 24/01/2018 (Bút lục 157 đến 159). Tòa án cấp sơ thẩm nhận định tại thời điểm chuyển nhượng ngày 24/01/2018 thửa đất số 92 không bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm chuyển dịch hay bị kê biên, ông LE và ông Th có đủ năng lực hành vi dân sự; ông Th và ông LE không tranh chấp đối với giao dịch chuyển nhượng này và Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang xác định thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông LE là đúng quy định của pháp luật và không có cơ sở để hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông LE, là chưa đúng với thực tế, bởi lẽ bà Ng liên tục có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá đối với việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo yêu cầu của nguyên đơn là có thiếu sót; từ đó xác định thẩm quyền giải quyết chưa đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính.
6. Bản án dân sự phúc thẩm số 94/2021/DS-PT ngày 06/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre về tranh chấp yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật, yêu cầu chia tài sản chung.
Nội dung hủy án:
(i) Nguyên đơn ông Huỳnh Văn H1 có yêu cầu khởi kiện và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ông Huỳnh Văn Đ, Bà Huỳnh Thị Thu H3 (do Ông Huỳnh Văn Đ làm đại diện theo pháp luật), Bà Nguyễn Thị P1, Chị Huỳnh Thị Cẩm V, Chị Hồ Thị Ngọc T, Anh Huỳnh Tấn X, Chị Hồ Thị Ngọc T1 có yêu cầu độc lập yêu cầu chia tài sản chung của hộ gia đình. Tuy nhiên, như đã nhận định ở trên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất tranh chấp mặc dù ghi cấp cho hộ Ông Huỳnh Văn Đ nhưng là tài sản chung của ông Đ và bà N1. Tòa cấp sơ thẩm không xem xét nguồn gốc đất mà căn cứ vào sổ hộ khẩu của của hộ ông Đ lập ngày 10/5/1994 để xác định ông Đ, bà N1, bà H3, bà P, ông H1 (nguyên đơn) là thành viên của hộ được xét cấp quyền sử dụng đất và chấp nhận yêu cầu phân chia tài sản chung của bà H3, bà P, ông H1 (nguyên đơn) là không phù hợp. Từ việc xác định tài sản chung không phù hợp nên việc chia thừa kế di sản của bà N1 cũng không phù hợp.
(ii) Nguyên đơn là người đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất tranh chấp và tại phiên Tòa phúc thẩm, ông H1 trình bày hiện nay ông H1 ở nhà thuê, không có đất cất nhà ổn định cuộc sống nhưng Tòa cấp sơ thẩm xem xét ông H1 nhận thừa kế bằng giá trị không phù hợp.
(iii) Nguyên đơn khởi kiện, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu chia tài sản chung và chia thừa kế theo pháp luật đối với các thửa đất 24, 33, 25. Như vậy, phạm vi yêu cầu là hết các thửa đất này. Việc các đương sự xác định diện tích mỗi người được chia ít hơn so với diện tích chia theo quy định của pháp luật là do không hiểu rõ các quy định của pháp luật, có sự nhầm lẫn về đối tượng được chia mà không được giải thích, hướng dẫn để có đơn yêu cầu phù hợp. Bản án sơ thẩm chỉ căn cứ vào diện tích mà đương sự tự chia và yêu cầu trong đơn khởi kiện để giải quyết mà không xem xét ý chí của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là yêu cầu giải quyết toàn bộ diện tích đất tranh chấp. Từ đó, cấp sơ thẩm chỉ xem xét giải quyết đối với một phần tài sản tranh chấp là giải quyết chưa toàn diện vụ án. Hơn nữa, theo như bản án sơ thẩm đã chia thì vợ chồng ông H1 (nguyên đơn) được nhận 1.663,4m2 thửa 25, còn lại 187m2 thửa 25 giao cho ông Đ tiếp tục quản lý sử dụng trong khi thửa đất này hiện tại do ông H2 bị đơn đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, việc tách thửa để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như bản án đã tuyên là không đảm bảo quy định về diện tích tối thiểu để tách thửa theo Quyết định 38/2018/QĐ-UBND ngày 04/9/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre.
Với những nội dung vi phạm như trên, không thể khắc phục được tại cấp phúc thẩm. Vì vậy, hủy Bản án sơ thẩm số: 70/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện M, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện M giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
7. Bản án dân sự phúc thẩm số 70/2021/DSPT ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp chia tài sản chung, thừa kế theo pháp luật và theo di chúc.
Nội dung hủy án:
(i) Căn cứ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của bà Cao Thị Bé H, bà Võ Thị V, bà Lê Thị L, anh Võ Tấn T, chị Lê Thị L1 và bà Võ Thị P tại phiên tòa phúc thẩm, thể hiện:
- Cụ Cao Văn H (có tên gọi khác Cao Văn L) (chết năm 2002) và cụ Võ Thị T (1936-2008) xác lập quan hệ hôn nhân đến năm 1957 thì chấm dứt. Cụ L, cụ T có 01 con chung tên Cao Thị Bé H.
- Năm 1957, cụ Võ Thị T xác lập quan hệ hôn nhân với cụ Nguyễn Văn H (chết năm 1969) có 05 người con gồm: ông Nguyễn Văn C (chết không vợ, con); ông Nguyễn Văn T (chết) có 02 người con là anh Nguyễn Minh H, chị Nguyễn Hoàng L; bà Võ Thị P; bà Võ Thị V; bà Võ Thị D (chết): 03 người con gồm Võ Văn Lê M, Võ Văn Lê T, Lê Ngọc Q.
- Năm 1970, cụ Võ Thị T chung sống với cụ Lê Văn H (mất năm 2012) có 04 người con gồm: ông Lê Hoàng D (chết không vợ, con); ông Võ Tấn T; bà Lê Thị L1 và bà Lê Thị L.
Sinh thời, cụ Võ Thị T có tạo lập căn nhà bán kiên cố cất trên thửa đất số 21 diện tích 148,8m2 đất ở tại ấp A, xã AH, huyện CB, tỉnh Tiền Giang, được Ủy ban nhân dân huyện CB cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày 25/11/2004. Ngày 23/11/2006, cụ Võ Thị T lập di chúc tặng cho căn nhà và phần diện tích đất cho bà Võ Thị V và bà Lê Thị L. Sau đó, bà Võ Thị V và bà Lê Thị L được Ủy ban nhân dân huyện CB cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00782 ngày 04/01/2013, tuy nhiên bà Cao Thị Bé H khiếu nại, nên Ủy ban nhân dân huyện CB ban hành Quyết định số số 7581/QĐ-UBND ngày 04/9/2014 về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Võ Thị V và Lê Thị L. Bà Cao Thị Bé H khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với phần diện tích 148,8m2.
Bản án án sơ thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Cao Thị Bé H về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Võ Thị V, Lê Thị L về việc yêu cầu công nhận di chúc; chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Thị P, Lê Thị L1 và Võ Tấn T; chia phần diện tích 148,8m2 thành 06 kỷ phần cho 06 người gồm bà Cao Thị Bé H, bà Võ Thị V, bà Lê Thị L, bà Võ Thị P, bà Lê Thị L1 và ông Võ Tấn T; giao cho bà V, bà L được quyền quản lý sử dụng phần diện tích 148,8m2 và bà V, bà L có nghĩa vụ hoàn trả mỗi kỷ phần thừa kế số tiền 424.391.900 đồng, là chưa phù hợp.
(ii) Bản án sơ thẩm nhận định cụ Võ Thị T có 03 người chồng, sinh sống vào các thời điểm khác nhau, cụ thể: từ năm 1955-1957 là vợ chồng với cụ Cao Văn L; từ năm 1957-1969 là vợ chồng với cụ Nguyễn Văn H và từ năm 1970-2012 là vợ chồng với cụ Lê Văn H, nhưng không làm rõ hôn nhân giữa cụ Võ Thị T với 03 người chồng thì hôn nhân nào là hợp pháp.
(iii) Bản án sơ thẩm nhận định nguồn gốc diện tích đất tranh chấp có từ trước năm 1975, do cụ T mua của địa chủ Nguyễn Văn Tài vào năm 1960 nhưng chỉ thu thập hồ sơ thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sổ mục kê vào năm 2004 của cụ Võ Thị T (bút lục 132-145) mà không thu thập hồ sơ tài liệu 299 theo Chỉ thị số 299/TTg ngày 10/11/1980 để xác định nguồn gốc quyền sử dụng đất, ai kê khai, số thửa và diện tích bao nhiêu. Trong hồ sơ vụ án, tại đơn xin kê khai quyền sử dụng đất ngày 19/6/2003 của cụ Võ Thị T (do bà Võ Thị V kê khai dùm) thể hiện diện tích kê khai là 148,8m2 có ghi nguồn gốc sử dụng đất “CQ, chiếm cống công cộng” và tại trang 2 ở phần ý kiến của cơ quan địa chính thể hiện nội dung:“đủ điều kiện nhưng phải hoàn thành thủ tục CQ trước khi cấp GCNQSD đất” (bút lục 134); 01 tờ nhượng đất ngày 31/5/1997 với nội dung cụ Võ Thị T nhượng 01 phần đất của bà Nguyễn Lan Phương dài 5m, ngang 5,3m với giá 4,5 cây vàng 24K (bút lục 106, bản photo), nhưng Tòa án sơ thẩm chưa đề nghị Ủy ban nhân dân huyện làm rõ nội dung trong đơn đăng ký của cụ T như: diện tích chuyển quyền là bao nhiêu, diện tích lấn chiếm cống công cộng là bao nhiêu, nếu nguồn gốc đất do cụ T nhận chuyển nhượng thì tại sao khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại ghi cấp cho hộ cụ Võ Thị T; chưa làm rõ có phải phần diện tích mua của bà Phương vào năm 1997 hay không.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Cao Thị Bé H cho rằng cụ L có để lại cho cụ T một số vàng, bà góp vàng cho cụ T mua đất và cất nhà, nhưng cấp sơ thẩm chưa làm rõ nội dung này, đồng thời chưa làm rõ tài sản tranh chấp có phải là tài sản chung của vợ chồng cụ T, của hộ gia đình hay là tài sản riêng của cụ Võ Thị T.
Mặt khác, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ Võ Thị T và hồ sơ kỹ thuật thửa đất năm 2002 thì thửa số 21, diện tích là 148,8m2 (bút lục 136, 139) là một thửa nguyên nhưng khi đo đạc thực tế vào năm 2018 thì diện tích là 130,2m2 (giảm 18,2m2) gồm 02 phần: 01 phần diện tích 24m2, một phần diện tích 105,3m2 và bị chia cắt bởi 01 mương thoát nước (bút lục 118-122). Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự yêu cầu chia 148,8m2, nhưng Tòa án sơ thẩm chưa làm rõ nguyên nhân thiếu 18,2m2 là do đâu.
Bên cạnh đó, thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2004, cụ T đang có quan hệ hôn nhân với cụ Lê Văn H (mất năm 2012), cấp sơ thẩm chưa làm rõ quyền sử dụng đất này có phải là tài sản chung của cụ T, cụ H không. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 02/02/2021, chị Lê Thị L (con của cụ T và cụ H) xác định ngoài cụ Võ Thị T, thì cụ Lê Văn H còn có 01 người vợ khác và 05 người con đang sinh sống tại Vĩnh Long. Trường hợp có căn cứ xác định hôn nhân giữa cụ T và cụ H là hôn nhân hợp pháp và nhà, đất đang tranh chấp là tài sản chung của cụ T và cụ H thì phải đưa những người con của cụ H với người vợ khác vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
(iv) Khi giải quyết chia thừa kế của cụ T, Tòa án sơ thẩm chỉ chia 06 kỷ phần, còn những người thừa kế khác không chia; hồ sơ vụ án thể hiện cụ Võ Thị T có 10 người con (có 02 người chết không có vợ, con), trong khi đó các thừa kế của bà Võ Thị D (gồm anh Võ Văn Lê M, Võ Văn Lê T, Lê Ngọc Q) và các thừa kế của ông Nguyễn Văn T (gồm anh Nguyễn Minh H, chị Nguyễn Hoàng L) đều có ý kiến là không đồng ý chia thừa kế và đồng ý giao cho bà V, bà L quản lý nhà, đất làm nhà thờ cúng, không phải từ chối nhận di sản thừa kế (bút lục 204-206; 210-212; 216-218; 257-259; 264-266); khi giải quyết chia thừa kế, cấp sơ thẩm chưa xem xét công sức quản lý của bà Võ Thị V, bà Lê Thị L đối với di sản do cụ T để lại.
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án, trên phần đất tranh chấp có 01 căn nhà do gia đình chị Lê Thị L đang quản lý, sử dụng. Theo nội dung Tờ di chúc ngày 23/11/2006, cụ T để lại căn nhà có cấu trúc bằng cây tạp, mái lợp tole, nền xi măng nhưng tại Biên bản định giá ngày 13/4/2018 của Hội đồng định giá và Chứng thư thẩm định giá của Công ty cổ phần Định giá và Tư vấn đầu tư quốc tế ngày 21/8/2020 (bút lục 460-475) xác định: căn nhà có kết cấu cột kèo, gỗ quy cách, vách tường, mái tole, nền xi măng, có khu phụ, không trần, 01 vách nhờ và có 01 mái che có kết cấu cột, kèo gỗ quy cách, mái tole, nền gạch tàu, 01 hàng cột nhờ, Tòa án sơ thẩm chưa làm rõ tình trạng căn nhà trên đất tại thời điểm cụ T mất và thời điểm giải quyết tranh chấp có sự thay đổi như thế nào; có xây dựng lại hay không; ai là người xây dựng lại, giá trị tăng thêm của căn nhà hiện nay so với thời điểm cụ T mất.
(v) Về định giá tài sản: Khi giải quyết vụ án, Tòa án sơ thẩm tiến hành định giá nhà, đất tranh chấp vào ngày 13/4/2018 (trị giá diện tích 148,8m2, nhà và mái che là 1.535.012.000 đồng, bút lục 112-113) nhưng đến ngày 11/9/2020 mới tiến hành xét xử, nên giá trị tài sản tranh chấp có nhiều thay đổi, mà Tòa án không tiến hành định giá lại. Bà Võ Thị P, chị Lê Thị L1 và anh Võ Tấn T đã tự yêu cầu Công ty cổ phần Định giá và Tư vấn đầu tư quốc tế định giá tài sản tranh chấp và nộp cho Tòa án sơ thẩm Chứng thư thẩm định giá của ngày 21/8/2020 với giá trị tài sản tranh chấp là 3.557.691.000 đồng (định giá với diện tích đất là 130,2m2, bút lục 460-475). Tòa án sơ thẩm đã cộng kết quả định giá ngày 13/4/2018 của Hội đồng định giá với kết quả định giá theo Chứng thư ngày 21/8/2020 rồi tính trung bình cộng của 02 kết quả này để xác định giá trị tài sản tranh chấp, là không có căn cứ, vi phạm Điều 97 và Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự.
(vi) Về Tờ di chúc ngày 23/11/2006: Nguyên đơn Cao Thị Bé H, bà Võ Thị P, chị Lê Thị L1 và anh Võ Tấn T (T) đều có yêu cầu hủy di chúc với lý do cụ T không biết đọc, viết. Tại phiên tòa, chị Lê Thị L xác định cụ T chỉ viết được tên, không biết đọc; còn bà Võ Thị V trình bày cụ T biết đọc nhưng không viết tên được. Tòa án cấp sơ thẩm có tiến hành xác minh đối với ông Phạm Văn Đồng, người chứng thực di chúc (bút lục 304) nhưng chưa làm rõ việc cụ T có biết đọc, biết viết hay không.
(vii) Ngoài ra, một số tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chỉ là bản photo, không đảm bảo giá trị pháp lý của chứng cứ theo quy định tại Điều 93, Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự.
Với những vi phạm và thiếu sót trên, cấp phúc thẩm không khắc phục được, cần hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện CB giải quyết lại theo thủ tục chung. Do hủy bản án sơ thẩm, nên Hội đồng xét xử chưa xem xét yêu cầu kháng cáo của bà Võ Thị V, chị Lê Thị L, anh Đặng Võ Minh Q và chị Đặng Võ Phương Hồng T cũng như đề nghị của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập bà Võ Thị P, bà Lê Thị L1 và ông Võ Tấn T.
8. Bản án dân sự phúc thẩm số 304/2020/DS-PT ngày 25/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Nội dung hủy án:
(i) Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 30/3/1994 (Giấy trắng) gồm thửa số 91, diện tích 5.100m2 và thửa đất số 92, diện tích 684m2, tọa lạc tại ấp L, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang là cấp cho ông bà Nguyễn Ngọc C. Ông C có vợ là bà Nguyễn Thị S, tài sản cấp giấy trong thời kỳ chung sống vợ chồng giữa ông C và bà S, án sơ thẩm chia hai thửa số 91, diện tích 5.100m2 và thửa đất số 92, diện tích 684m2, nhưng án sơ thẩm không đưa bà Nguyễn Thị S vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà S.
(ii) Án sơ thẩm xác định về nguồn gốc 02 thửa đất số 91, diện tích 5.100m2 và thửa đất số 92, diện tích 684m2 là của cụ Nguyễn Tấn Tr và cụ Trần Thị C. Năm 1975, cụ C chết, đất do cụ Tr quản lý canh tác và kê khai đứng tên trên sổ bộ địa chính, theo quy định tại công văn 1568 ngày 25/4/2007 của Bộ Tài nguyên và môi trường là một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 1997. Bàị Ng, anh H tranh chấp yêu cầu xác định 02 thửa đất trên là di sản của cụ Tr và yêu cầu chia thừa kế theo quy định pháp luật. Khi giải quyết án sơ thẩm lại chia hết toàn bộ di sản của cụ Tr và của cụ C là vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu.
(iii) Theo đơn xác nhận ngày 30/12/2019 của bà Nguyễn Thị Hoàng Tr: ông C đứng tên hai phần đất tranh chấp nhưng từ năm 1994 ông C đã đi lập nghiệp và sinh sống tại tỉnh Đắk Nông, bà Tr là người trực tiếp quản lý và sử dụng hai phần đất tranh chấp nêu trên. Chia công sức quản lý gìn giữ là chia cho người trực tiếp quản lý gìn giữ, án sơ thẩm chưa xác minh làm rõ ai là người trực tiếp quản lý gìn giữ, lại giao kỷ phần quản lý gìn giữ cho tất cả những người con của ông Nguyễn Tòng B là không đúng.
Những sai sót trên Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung, khắc phục được. Để đảm bảo nguyên tắc xét xử hai cấp và đảm bảo quyền kháng cáo của các đương sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần hủy bản án sơ thẩm.
Do hủy án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử chưa xem xét đến yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Hoàng Tr, Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Thế H; Nguyễn Minh Tr.
9. Bản án dân sự phúc thẩm số 30/2020/DS-PT ngày 07/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp về chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Nội dung hủy án:
(i) Chị T yêu cầu chia di sản thừa kế do cụ D, cụ B để lại gồm diện tích đất 843m2, thuộc thửa đất số 46, tờ bản đồ số 58 tại tổ dân phố H, thị trấn S, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cụ Nguyễn Ngọc D. Đo thực tế diện tích đất chỉ còn 662,8m2. Trên đất có 01 ngôi nhà 4 gian lợp ngói, tường rào, sân lải gạch, giếng nước và một số cây cối lâm lộc trên đất.
Quá trình giải quyết bà Nguyễn Thị T cung cấp cho Tòa án bản sao có chứng thực của UBND thị trấn L “Giấy ủy quyền thừa kế đất ở lâu dài” (BL 75) nội dung văn bản này thể hiện ngày 16/5/2002, cụ Đỗ Thị B để lại khu đất ở (843m2) và 01 nhà lá 04 gian cho con gái nuôi là Nguyễn Thị T, văn bản có chữ ký, chữ viết của cụ Đỗ Thị B, có xác nhận của ông Cao Bá , trưởng khu phố H “Đơn trình bày của bà Đỗ Thị B có ủy quyền cho con gái là Nguyễn Thị T quyền sử dụng đất số L894248 là đúng sự thực”; có chữ ký, chữ viết của ông Nguyễn Ngọc C (em ruột chồng cụ B), cháu họ Nguyễn Văn H cùng ngày 16/5/2002 và UBND xã L xác nhận ngày 04/5/2004. Nội dung văn bản không ghi rõ số thửa đất, các chiều cạnh nhưng lời xác nhận của trưởng khu lại ghi rõ số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hơn nữa với tài liệu trong hồ sơ cho thấy cụ D, cụ B chỉ có 01 thửa đất thổ cư chính là thửa đất đang tranh chấp. Tuy nhiên Tòa án không yêu cầu đương sự cung cấp xác nhận hoặc trực tiếp lấy lời khai của những người chứng kiến; hỏi rõ ai là người viết giấy ủy quyền này để làm rõ tính hợp pháp của bản di chúc trên là chưa làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án.
(ii) Chị Nguyễn Thị Hương T cung cấp cho Tòa án bản sao “Biên bản thỏa thuận” (BL10, 11), có xác nhận của khu phố H nhưng văn bản không có chứng thực hợp lệ. Theo Biên bản này thì ý nguyện của toàn thể các T viên trong gia đình là nhà đất này sau này sẽ để làm nhà thờ tổ nhưng chị T đang ở trên nhà đất này cùng các mẹ nên cả gia đình nhất trí để chị T ở cùng các mẹ trên nhà đất mới làm và sau khi các mẹ mất chị T được trực tiếp quản lý, sử dụng. Bà T cho rằng buổi họp gia đình có mặt cụ B nhưng cụ B không đồng ý và không có xác nhận của chính quyền địa phương (BL89, 90) nên không có giá trị pháp lý. Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự cung cấp bản chính hoặc bản sao có chứng thực biên bản này, không yêu cầu các đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ để làm rõ quan điểm của bà T về việc cụ B không ký có đúng hay không, nhưng lại sử dụng tài liệu này để đánh giá ý chí của cụ B đã thay đổi kể từ thời điểm gia đình họp bàn, lập biên bản và thống nhất “Giấy ủy quyền đất ở lâu dài” không còn giá trị pháp lý là chưa đủ căn cứ.
(iii) Sau khi cụ D chết, cụ B đã ủy quyền cho bà T được toàn quyền sử dụng đất theo văn bản ngày 16/5/2002, sau khi được ủy quyền, ngày 15/12/2016 bà T đã làm đơn khiếu nại gửi UBND thị trấn S về việc bị các hộ đã lấn chiếm đất, UBND thị trấn S đã trả lời bà bằng văn bản từ chối giải quyết tranh chấp đất đai của bà T với lý do bà T chưa làm thủ tục đăng ký nhận con nuôi; chưa được công nhận quyền sử dụng đất. Bà T cũng đã làm đơn gửi cho TAND huyện L ngày 06/9/2018 (BL 72) cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo, đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp đất đai với gia đình ông Lê Quang H. Tòa án cấp sơ thẩm không thụ lý và không hướng dẫn đương sự hoàn thiện hồ sơ khởi kiện mà lại thông báo trả lại đơn khởi kiện cho đương sự (BL 88); Thông báo trả lại đơn khởi kiện cũng không tống đạt cho bà T để bà T thực hiện quyền khiếu nại là vi phạm Điều 171 Bộ luật tố tụng dân sự.
Theo các tài liệu do bà T xuất trình thì đúng là thửa đất này đang có tranh chấp, sau khi có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai của bà T, Tòa án cấp sơ thẩm đi xác minh tại UBND thị trấn S nhưng không đưa ra các tài liệu, chứng cứ do bà T xuất trình chứng minh thửa đất đang có tranh chấp dẫn đến cán bộ tư pháp của UBND thị trấn S trả lời từ trước đến nay địa phương chưa tiếp nhận, giải quyết đơn khiếu nại của ai liên quan đến thửa đất tranh chấp (BL 160). Đây là thông tin rõ ràng không đúng sự thật nhưng Tòa án lại căn cứ vào đó để trả lại đơn khởi kiện cho bà T là sai sót.
Như vậy thửa đất này đang có tranh chấp, chưa được cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết mà Tòa án lại chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn để chia thừa kế là sai lầm nghiêm trọng, vì Tòa án không thể giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế nếu chưa giải quyết tranh chấp phần di sản thừa kế đối với người khác. Trong trường hợp này Tòa án cần hướng dẫn cho bà T hoàn thiện hồ sơ để thụ lý giải quyết tranh chấp đất đai với gia đình ông Lê Quang H trước (vụ án tranh chấp thừa kế phải tạm đình chỉ theo quy định tại Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự). Sau đó giải quyết tranh chấp di sản thừa kế.
(iv) Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định chị H, chị T, chị N là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ B và cho rằng cụ X không phải là vợ hợp pháp của cụ D, bà T không phải là con nuôi của cụ D, cụ B nên không được hưởng thừa kế.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà T không phải là con nuôi của cụ D, cụ B là sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ, bởi lẽ:
Ngày 15/10/2018 bà T đã cung cấp cho Tòa án bản sao có chứng thực của UBND thị trấn L “Đơn đề nghị xin giấy giới thiệu” của cụ Nguyễn Huy N (bố đẻ bà T) đề ngày 22/5/1965 (BL78), cụ N đồng ý cho bà làm con nuôi của cụ D và cụ B có xác nhận của Ủy ban hành chính xã L; tài liệu này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự: “Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận”.
Việc bà T là con nuôi của cụ D, cụ B còn thể hiện qua nhiều tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như trong “Giấy ủy quyền thừa kế đất ở lâu dài”; Biên bản bàn giao nhà đại đoàn kết ngày 9/9/2006; Biên bản thỏa thuận ngày 26/5/2006 và lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như Bản án đã nhận định. Như vậy có căn cứ vững chắc để khẳng định bà T là con nuôi của cụ D, cụ B. Tuy nhiên Bản án quyết định bà T không phải là con của cụ D, cụ B dẫn đến tước bỏ quyền thừa kế của bà T là không đúng quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà T.
Đối với cụ X được xác định là vợ hai của cụ D, cụ X kết hôn với cụ D năm 1976, có tổ chức cưới hỏi nhưng không đăng ký kết hôn và cùng chung sống với cụ B là vợ cả cụ D. Tòa án cấp sơ thẩm chưa nghiên cứu, xem xét thấu đáo đến hoàn cảnh lịch sử, quá trình chung sống và trách nhiệm của cụ X đối với cụ D và cụ B để xác định cụ X có phải là người thừa kế tài sản của cụ D hay không là thiếu sót.
Mặt khác khi chia di sản thừa kế Tòa án cấp sơ thẩm chia bằng hiện vật làm 05 phần tương đương nhau (phần của cụ X và chị T được Tòa xác định có công duy trì tài sản) là không hợp lý, vì nếu là công duy trì tài sản thì chỉ tính một phần giá trị bằng tiền, trừ trường hợp tính công sức duy trì tài sản cho chính người quản lý di sản.
10. Bản án dân sự phúc thẩm số 26/2019/DS-PT ngày 18/01/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp thừa kế theo pháp luật.
Nội dung hủy án:
Cho đến nay, theo lời khai của bà Trần Tuấn A, ông Trương Hoàng T3, ông Trường Hoàng Thiện và theo văn bản số 669 ngày 25/10/2018, văn bản số 670 ngày 25/10/2018 của Ủy ban nhân dân phường H, quận N, thành phố Hồ Chí Minh cùng với những tài liệu, chứng cứ mà đương sự nộp bổ sung, Tòa án cấp phúc thẩm có căn cứ xác định rằng trong những căn nhà tranh chấp nói trên, so với tình trạng khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án, thì có 03 căn nhà đã có sự thay đổi hoàn toàn về cấu trúc và thay đổi về chủ sở hữu nhà. Do có sự thay đổi về cấu trúc nhà và về chủ sở hữu nhà nên Tòa án cần thiết phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để xác định lại về giá trị tài sản tranh chấp, xác định lại về người tham gia tố tụng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng. Những sự việc này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện, không thể thực hiện bổ sung tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.